QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM:
"TỪ NHÂN DÂN MÀ RA, VÌ NHÂN DÂN MÀ CHIẾN ĐẤU".
Ngày 22 tháng 12 hằng năm là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ôn lại truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam – đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Trải qua 81 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn giữ vững bản chất cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân.
Cuối năm 1944, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến lớn. Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, phát xít Nhật ngày càng lấn át thực dân Pháp và độc chiếm Đông Dương. Trong khi đó, phong trào cách mạng ở Việt Nam phát triển mạnh và đặt ra yêu cầu cấp bách phải chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Nhiệm vụ trung tâm lúc này là xây dựng một lực lượng vũ trang chủ lực, đủ sức làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh vũ trang của quần chúng nhân dân. Nhận thức rõ yêu cầu đó, dưới tầm nhìn chiến lược và sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương đã quyết định thành lập một đội quân vũ trang cách mạng, lực lượng tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay.
Vào ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), một sự kiện trọng đại đã diễn ra, đặt nền móng cho lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam: Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chính thức được thành lập và trở thành lực lượng khởi nguyên trực tiếp của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay.
Lực lượng ban đầu gồm 34 chiến sĩ ưu tú, được lựa chọn từ các đội du kích hoạt động tại khu vực Cao, Bắc, Lạng, nơi phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ. Dù chỉ mới thành lập và trang bị còn rất thô sơ với 34 khẩu súng nhưng tinh thần chiến đấu và lòng quyết tâm của các chiến sĩ lại vô cùng mãnh liệt, đơn vị nhanh chóng giành thắng lợi trong hai trận đánh đầu tiên tại đồn Phay Khắt và Nà Ngần, mở đầu cho chuỗi chiến công vang dội ngay từ những ngày đầu thành lập.

Ngay sau thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam được tổ chức lại dưới tên gọi Vệ quốc đoàn, sau đó tên gọi được đổi thành Quân đội Quốc gia Việt Nam, và đến năm 1950, chính thức mang tên Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Từ một đội quân non trẻ, quân đội ta đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chiến thắng lớn nhất và mang tính quyết định trong giai đoạn này là Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Một chiến thắng quân sự “chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Genève, chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương.

Sau Hiệp định Genève năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Trong bối cảnh đó, lực lượng quân đội đã tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời chi viện cho miền Nam, phối hợp cùng quân Giải phóng miền Nam tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Suốt hai thập kỷ chiến đấu kiên cường, quân đội ta đã cùng nhân dân lập nên những chiến công lẫy lừng, làm thay đổi cục diện chiến tranh. Tiêu biểu là Chiến thắng Ấp Bắc (1963) minh chứng cho khả năng tác chiến của lực lượng vũ trang cách mạng, Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975).

Sau khi đất nước được thống nhất hoàn toàn vào năm 1975, nhiệm vụ của Quân đội cũng bước sang một giai đoạn mới. Bên cạnh nhiệm vụ quốc phòng, trong giai đoạn khó khăn của thời kỳ bao cấp, lực lượng quân đội còn tham gia tích cực vào công cuộc tái thiết đất nước và hình ảnh “bộ đội xây nhà, đắp đường, cứu dân trong bão lũ” đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người dân, thể hiện rõ vai trò của là “đội quân chiến đấu” và là “đội quân công tác, đội quân sản xuất” đúng như lời dạy của Bác Hồ.
Đặc biệt, sau năm 1975, quân đội tiếp tục thể hiện vai trò quốc tế cao cả khi cùng nhân dân Campuchia giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot, góp phần giữ gìn hòa bình và ổn định khu vực. Ngay sau đó, quân đội ta tiếp tục đối mặt với một thách thức nghiêm trọng khác: Chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979. Ngày 17/2/1979, Trung Quốc huy động hàng chục vạn quân tiến công đồng loạt vào các tỉnh biên giới phía Bắc như Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai… với mục tiêu gây sức ép và răn đe Việt Nam.
Tuy nhiên, nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa quân đội chính quy, lực lượng dân quân và nhân dân địa phương, Việt Nam đã nhanh chóng tổ chức kháng cự, đẩy lùi toàn bộ lực lượng xâm lược sau 1 tháng giao tranh. Dù tổn thất là không nhỏ, nhưng chiến thắng này một lần nữa khẳng định tinh thần kiên cường, bất khuất của quân đội và nhân dân ta trong việc bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.

Bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp tục được xây dựng theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Các quân chủng, binh chủng chủ lực như Phòng không – Không quân, Hải quân, Tác chiến điện tử, Lực lượng công nghệ cao... được đầu tư trang bị hiện đại. Đặc biệt, lực lượng Hải quân và Không quân ngày càng đóng vai trò chủ lực trong bảo vệ chủ quyền biển đảo và vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc.
Không dừng lại ở nhiệm vụ trong nước, năm 2014, lực lượng quân đội đã chính thức tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, các sĩ quan Việt Nam được cử đến các phái bộ tại Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi… đã thực hiện hiệu quả nhiều nhiệm vụ về quân sự, hậu cần, y tế và phối hợp dân sự, qua đó lan tỏa hình ảnh một quốc gia hòa bình, tận tâm và có đóng góp thực chất cho cộng đồng quốc tế.
Bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” – kiên trung, dũng cảm, kỷ luật, trách nhiệm, gần dân, thương dân. Đội quân ấy không chỉ bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo, vùng trời Tổ quốc, mà còn là lực lượng xung kích trong phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Ở bất cứ nơi đâu Tổ quốc cần, người chiến sĩ quân đội nhân dân đều sẵn sàng có mặt, nêu cao tinh thần “Vì nhân dân phục vụ”.



Ngày 22/12 vừa là dịp tưởng niệm, vừa là dịp giáo dục lòng yêu nước, đặc biệt với thế hệ trẻ. Các đoàn đại biểu từ các cấp chính quyền, quân đội, đoàn thể thanh niên, học sinh... thực hiện lễ dâng hương, đặt vòng hoa và báo công dâng Bác như một hình thức tỏ lòng biết ơn đối với những người đã hy sinh vì Tổ quốc. Các hoạt động tuyên truyền chiếu phim tư liệu, gặp mặt nhân chứng lịch sử, … những câu chuyện thật, con người thật đã giúp học sinh, sinh viên hiểu rằng: hòa bình hôm nay là kết quả của máu, mồ hôi và trí tuệ cha anh để lại. Từ đó, tinh thần trách nhiệm với đất nước, với cộng đồng cũng được khơi dậy bằng những khẩu hiệu và những hành động cụ thể như học tập tốt, sống có ích, sẵn sàng góp sức khi Tổ quốc cần.
Tại các trường học, cơ quan và đơn vị, ngày 22/12 được tái hiện qua các chương trình văn nghệ, hội trại truyền thống, hội thi tìm hiểu lịch sử quân đội, triển lãm ảnh, thi báo tường, giao lưu với các cựu chiến binh,....Những hoạt động này vừa sinh động, dễ tiếp cận, vừa góp phần khơi gợi tình cảm với người lính trong lòng cộng đồng.
Trong kỷ nguyên số, các hoạt động kỷ niệm 22/12 cũng được triển khai trên các nền tảng mạng xã hội. Người dân, đặc biệt là giới trẻ, thể hiện tình cảm qua video tri ân, thiết kế infographic lịch sử, ảnh đại diện gắn hashtag, hoặc các bài viết chia sẻ cảm nhận về người thân từng là bộ đội.
Dù ở thời kỳ nào, tinh thần Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn là biểu tượng của ý chí kiên cường và lòng trung thành với Tổ quốc. Hãy tin rằng 22/12 sẽ luôn là ngày để chúng ta nhắc nhau sống tử tế, sống có trách nhiệm và sống để cống hiến.
Bài viết của tổ Toán – Tin. Trường THCS Hồng Sơn
Tác giả: ĐNThuyên
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn